Nếu thuốc và thiết bị chân không thất bại có thể xem xét chỉ định giải phẫu cấy ghép một bộ phận dương vật giả. Bộ phận cấy ghép giả bao gồm các thanh silicone bán cứng và các thiết bị gồm nhiều thành phần có thể bơm phồng bằng nước muối. Cả hai mẫu này đều có nguy cơ chung của gây tê, nhiễm trùng và sự đào thải vật ghép hoặc trục trặc bộ phận cấy ghép giả. Với các bác sĩ giải phẫu có kinh nghiệm, tỷ lệ nhiễm trùng kéo dài hoặc trục trặc của bộ phận cấy ghép giả là dưới 5% và tỷ lệ bệnh nhân và đối tác bằng lòng là> 95%. Ưu điểm của việc cấy ghép dương vật giả bằng giải phẫu là rõ ràng: cương cứng được tạo ra tức tốc và thiên nhiên, sự cương cứng kéo dài cho đến khi bệnh nhân làm xẹp thiết bị của mình và hoạt động dục tình có thể diễn ra thẳng tắp như mong muốn của cặp vợ chồng. nên chi khi so sánh mức độ bằng lòng giữa tuốt luốt các phương pháp điều trị, cấy ghép dương vật giả có tỷ lệ chấp nhận cao nhất.

Điều trị đầu tay trong RLCD thường là một thuốc ức chế phosphodiesterase đường uống. Các thuốc khác được dùng bao gồm prostaglandin E1 tiêm nội hang hoặc đặt niệu đạo. Tuy nhiên, vì hồ hết các bệnh nhân đều muốn dùng thuốc uống, thuốc uống được chỉ định trừ khi có chống chỉ định hoặc không dung nạp.

Thuốc ức chế phosphodiesterase đường uống ức chế có chọn lọc guanosine monophosphate vòng (cGMP)-đặc biệt là phosphodiesterase type 5 (PDE5), chất đồng phân phosphodiesterase cốt tử trong dương vật. Những loại thuốc này bao gồm sildenafil, vardenafil, avanafil và tadalafil (xem Bảng: Thuốc ức chế PDE-5 đường uống điều trị rối loạn cương dương). Thuốc có tác dụng làm cho cương cứng thông thường phê duyệt cơ chế ngăn ngừa sự thủy phân của cGMP, các thuốc này điều khiển sự giãn cơ trơn phụ thuộc cGMP. mặc dầu vardenafil và tadalafil có tính chọn lọc hơn đối với hệ mạch dương vật so với sildenafil, nhưng đáp ứng lâm sàng và tác dụng phụ của các thuốc này cũng na ná nhau. Trong các thí nghiệm lâm sàng so sánh, các thuốc này cho thấy hiệu quả tương đương (60 đến 75%).

hết thảy các thuốc ức chế PDE5 gây giãn mạch vành trực tiếp làm tăng tác dụng hạ huyết áp của nitrat khác, kể cả những thuốc dùng để điều trị bệnh mạch vành cũng như amyl nitrat dạng hít ("poppers"). Do đó, việc dùng đồng thời nitrat và chất ức chế PED5 có thể gây hiểm nguy và nên tránh. Cần bàn luận về những nguy cơ, sự tuyển lựa và thời kì ăn nhập để dùng thuốc ức chế PDE5 với thầy thuốc tim mạch ở những bệnh nhân chỉ thỉnh thoảng dùng nitrat (thí dụ như cơn đau thắt ngực không liền ).

Tác dụng ngoại ý của thuốc ức chế PDE5 bao gồm đỏ bừng mặt, thất thường thị giác, mất thính lực, rối loạn tiêu hóa và nhức đầu. Sildenafil và vardenafil có thể gây ra sự nhận thức màu sắc bất thường (lóe xanh). dùng Tadalafil có mối liên can với chứng đau cơ. Hiếm gặp, bệnh lý thị thần kinh thiếu máu (NAION) liên quan đến việc dùng thuốc ức chế PDE5, nhưng mối quan hệ nhân quả này vẫn chưa được chứng minh. Do có nguy cơ hạ huyết áp nên ắt các thuốc ức chế PDE5 cần được sử dụng cẩn thận và ở những liều lượng ban đầu thấp hơn cho những bệnh nhân dùng thuốc chẹn alpha (tỉ dụ, prazosin, terazosin, doxazosin, tamsulosin). Bệnh nhân dùng thuốc chẹn alpha nên đợi ít ra 4 giờ trước khi dùng thuốc ức chế PDE5. Hiếm khi, chất ức chế PDE5 gây ra hiện tượng cương đau dương vật.

Alprostadil (prostaglandin E1), tự sử dụng bằng tiêm nội hang hoặc đặt niệu đạo, có thể đạt được sự cương cứng với thời kì làng nhàng là 30 đến 60 phút. Để tăng hiệu quả điều trị có thể kết hợp alprostadil tiêm nội hang với papaverine và phentolamine. Liều dùng quá mức có thể gây ra cương đau dương vật ở ≤ 1% bệnh nhân và đau bộ phận sinh dục hoặc xương chậu khoảng 10%. bác sĩ cần chỉ dẫn và theo dõi để giúp bệnh nhân đạt được mục đích dùng tối ưu và an toàn, bao gồm giảm thiểu nguy cơ cương cứng kéo dài. Thuốc đặt niệu đạo có ít hiệu quả hơn trong việc tạo ra sự cương cứng thỏa đáng (lên tới 60% nam giới) so với tiêm nội hang (lên tới 90%). Đối với một số bệnh nhân không đáp ứng với điều trị trơ thổ địa thuốc ức chế PDE5 cần xem xét chỉ định liệu pháp kết hợp giữa thuốc ức chế PDE5 và alprostadil đặt niệu đạo.